PVLC CN Lễ Hiển Linh: ĐTGM Ngô Quang Kiệt, và PVLC Tuần Lễ Hiển Linh

0

https://youtube.com/live/7XIOlun-DkU


Lễ Hiển Linh

ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC

 ĐTGM Ngô Quang Kiệt 

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

- Is 60,1-6

- Ep 3,2-3a.5-6

- Mt 2, 1-12

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Chúa Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. 

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.

Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận từ nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hi vọng. Niềm hi vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vững bước trên đường lý tưởng. Niềm hi vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hi vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh giá đúng mức của cải vật chất đời này. Hi vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu để tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái.  Niềm hi vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc. 

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. 

III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?



Để tiếp tục bài Suy Niệm PVLC Chúa Nhật Lễ Hiển Linh của ĐTGM Ngô Quang Kiệt trên đây, chúng ta cùng nhau cử hành PVLC Tuần Lễ Chúa Hiển Linh

ở những đường kết nối từng ngày, bao gồm bài viết / text, phát thanh / audio mp3 và phát hình / video thứ tự như sau

 

Tuần Lễ Hiển Linh

(Bài viết chia sẻ PVLC trong tuần ở đường kết nối trên đây)

Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể... một Hài vương Do Thái:

https://youtube.com/live/rDQmVjXQjHs

LễHiểnLinhNăm2021.mp3 / 

https://youtu.be/-g5NZj4C_mo

DTCPhanxico-HuanTuTruyenTinLeHienLinh.6-1.mp3 / 

https://youtu.be/xfNzOZO4W_o (5/1 - Chúa Nhật)

 ThanhGioanNeumann.mp3 / 

https://youtu.be/E52YwmXINO0 (5/1 

- Chúa Nhật bị át bởi Lễ Hiển Linh)

GS-ThuHaiSauHienLinh.mp3

GS.ThuBaSauHienLinh.mp3 

ThanhRaymundoPenafort.mp3 / 

https://youtu.be/kdkhYDv7ZtM (7/1 - Thứ Ba)

GS.ThuTuSauHienLinh.mp3

GS.ThuNamsauHienLinh.mp3  

GS.ThuSausauHienLinh.mp3

GS.ThuBaysauHienLinh.mp3

Emmanuel Đông Phương

Hôm nay, Chúa Nhật sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, tức sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, ở Hoa Kỳ cũng như ở hầu như các giáo phận trên thế giới, vì lý do mục vụ cho nhiều giáo dân có thể tham dự, đều mừng Lễ Hiển Linh, tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh, vào Chúa Nhật này.

Thật vậy, Lễ Hiển Linh là tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là vì nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Giona 1:14) như một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng Thiên Sai của dân Do Thái đúng như đã được tiên báo trong lịch sử cứu độ của họ, và vì thế Người cũng là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, như đã được Thiên Chúa hứa ban ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), thì sự kiện ba chiêm vương gia đông phương theo ngôi sao lạ tìm đến với Người sau khi Người giáng sinh đã bắt đầu hiện thực dự án cứu độ của Thiên Chúa. 

Đó là một mầu nhiệm không phải ai trong dân Do Thái cũng có thể biết vào thời ấy, một dân tộc vốn coi thường dân ngoại, cho dân ngoại là những loại người tội lỗi xấu xa nhơ nhớp bởi họ tôn thờ những tà thần và ngẫu tượng nhân tạo giả trá, chứ không phải là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như dân Do Thái, cho dù Thánh Kinh và lịch sử cứu độ của dân Do Thái liên lỉ ám chỉ đến mầu nhiệm cứu độ phổ quát như vậy. Bởi thế, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong Thư gửi Giáo đoàn Epheso mới dám nói mà không sợ kiêu ngạo rằng: 

"Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần".

Phải, mầu nhiệm ấy là gì, mầu nhiệm được Thánh Thần chẳng những tỏ cho riêng vị tông đồ dân ngoại này mà còn tỏ cho các vị tông đồ của Tân Ước và các vị tiên tri trong Cựu Ước nữa, thành phần được sai đi rao giảng tin mừng cứu độ, nếu không phải, như đã cảm nhận và cũng đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô xác định trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô".

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia cũng đã nói tiên tri về ơn gọi và vai trò được tuyển chọn của dân Do Thái theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, một dự án cứu độ mà nhờ họ và qua họ Thiên Chúa muốn tỏ mình ra và ban ơn cứu độ cho chung nhân loại:

"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi".

Chưa hết, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị ngôn sứ này còn nói rõ hơn nữa về mầu nhiệm cứu độ phổ quát này, như thể ám chỉ đến chính sự kiện ba chiêm vương gia đại diện cho dân ngoại tìm đến bái thờ Hài Nhi Giêsu, qua các hình ảnh ám chỉ như sau:

"Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa".

Trước mầu nhiệm cứu độ phổ quát tuyệt vời ấy, Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng không thể nào không hân hoan vang tiếng chúc tụng ngợi khen rằng: "Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người".

Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay là bài phúc âm duy nhất trong cả 4 phúc âm về biến cố ba chiêm vương gia đông phương tìm "đến để triều bái Người". Thế nhưng, việc tìm kiếm của ba vị chiêm vương gia được bắt đầu từ kiến thức tự nhiên thông thạo của họ về trời đất cùng với lòng khao khát thần linh và tìm chân lý của họ, tự bản chất của những khả năng nhân bản này, tuy tốt lành và cần thiết, vẫn chưa đủ để gặp được Thiên Chúa, nếu không được chính Ngài tỏ mình ra cho, qua Thánh Kinh của người Do Thái. 

Bởi thế, mới xẩy ra sự kiện ngôi sao dẫn đường của họ và cho họ, trước khi dẫn họ đến chính chỗ "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1;14) thì đã biến mất ở ngay giáo đô Do Thái giáo là Thành Thánh Giêrusalem, nơi duy nhất có thể cho họ biết được đích xác đích điểm và đối tượng thần linh mà họ đang tìm kiếm. Đó là lý do phần đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay mới có đoạn sau đây: 

"Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: 'Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người'. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: 'Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta'".

Thật vậy, sự kiện kiến thức tự nhiên của ba chiêm vương gia này nhận biết các điềm trời đất để tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Đấng Tối Cao của mình chỉ đạt tới một mức độ giới hạn nào đó thôi. Muốn biết một cách đích xác hơn, Thiên Chúa là ai và ở đâu, như thế nào, chính Thiên Chúa cần phải tự tỏ mình ra cho con người, như Ngài đã liên tục tỏ mình ra nơi lịch sử của dân Do Thái, qua các biến cố của họ cũng như qua các vị tiên tri được Ngài sai đến với họ. Nhờ mạc khải thần linh của Thiên Chúa, như là những dấu mốc hay cột mốc chính yếu bất khả thiếu, con người mới có thể gặp được Ngài, như ba chiêm vương gia trong bài Phúc Âm hôm nay, nhờ chỉ dẫn của Thánh Kinh, như Thánh ký Mathêu ghi lại như sau:

"Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: 'Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người'. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình".

Đúng thế, chỉ sau khi được Thánh Kinh chỉ dẫn, ba chiêm vương gia này mới thấy lại ngôi sao lạ, nhờ đó họ đến được tận nơi mà họ muốn tới, hay đúng hơn nơi mà họ được dẫn tới, vì ở nơi đó là một ngôi "nhà" chứ không phải là một dinh thự, chỉ có "Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người", chứ không phải một đức vua uy nghi lẫm liệt ngự trên ngai vàng cùng với hoàng thái hậu bên cạnh. 

Ở đây không thấy nói tới Thánh Giuse. Chắc có thể bấy giờ, ngay lúc ba chiêm vương gia này bất ngờ tiến vào nhà thì ngài đi đâu vắng hay bận làm gì đó. Nhưng hình ảnh Mẹ Maria bên cạnh Hài Nhi Giêsu trước mặt ba chiêm vương gia này đã chẳng những cho thấy Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội có lý để mà sắp xếp (vào ngày 1/1) trước Lễ Hiển Linh (6/1), mà còn ám chỉ công cuộc cứu chuộc trần gian, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, được thực hiện bởi chính Người Con Thần Linh này cùng với sự đồng công cộng tác bất khả thiếu của Người Mẹ.

Tuy chỉ nhìn thấy "Hài Nhi và Mẹ Người" trong một ngôi "nhà" tầm thường, chẳng có gì là uy nghi cao cả, nguy nga lộng lẫy, hùng hậu triều thần v.v. như ở các cung đình khác trên thế gian này, ba chiêm vương gia vẫn tin tưởng Hài Nhi đó chính là "vua Do Thái mới sinh", Đấng mà họ đã bất chấp ngàn dặm xa xôi vất vả (có thể bất chấp cả những lời nhạo báng chê bai của những ai thân quen biết được ý định lên đường mù mịt mơ hồ của họ) để đến "bái thờ" với tất cả lòng thành kính và tin tưởng của mình: "khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược".

Ba chiêm vương gia đông phương này, so với thành phần mục đồng Do Thái cũng đã đến kính viếng Hài Nhi Giêsu trước đó trong chính Đêm Giáng Sinh, là thành phần thuộc hàng trí thức khôn ngoan và vương giả giầu có, mang theo họ những gì quí báu nhất để có thể xứng đáng bài thờ Hài Vương Giêsu, những món quà khác nhau và quí báu nhất của họ là "vàng, nhũ hương và mộc dược", ám chỉ 3 vai trò của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là vương đế (được tiêu biểu nơi "vàng"), tư tế (được tiêu biểu nơi "nhũ hương") và ngôn sứ (được tiêu biểu nơi "mộc dược"). 

Ba món quà quí giá này còn tiêu biểu cho các nền văn hóa đa dạng của dân ngoại, tuy cao quí và tốt đẹp, nhưng vẫn cần phải được qui về Chúa Kitô là Đấng qui tụ lại hết mọi sự (Epheso 1:10) để được thăng hoa và thánh hóa "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24). Ba món quà này, nếu tiêu biểu cho các nền văn hóa đa diện của các dân ngoại như thế, thì các nền văn hóa tiêu biểu nhất thời bấy giờ bao gồm 3 thứ văn hóa chính yếu khác nhau là: đạo giáo Đông phương (vàng), triết lý Hy Lạp (nhũ hương) và Luật pháp Rôma (mộc dược). 

THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM

  Lúc đó là một giờ đêm. Đầy hoan lạc và mến yêu, các mục tử ra đi lập tức và đến hang đá còn sớm lắm. Họ nhìn nhận ra ngay Hài Nhi Thiên Chúa dưới gương mặt lộng lẫy và ánh nhìn hiền từ của Ngài. Ngài tăng thêm thánh đức cho họ và soi sáng cho họ về mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Vì thế, họ đem hết lòng sùng mộ sấp mình trước mặt Chúa, thờ lạy Ngài là Thiên Chúa làm người. Mẹ Maria lưu tâm đến tất cả những việc họ làm, và cũng hiểu thấu tâm tình họ. Mẹ hiền từ chỉ dẫn cho họ và thúc giục họ bền vững phụng sự Thiên Chúa. Phần họ, họ nói cho Mẹ biết nhiều chi tiết về việc Sứ Thần báo tin mầu nhiệm cho họ. Mẹ suy niệm trong lòng tất cả những việc lạ lùng đó. Sau khi đã đãi các mục tử hảo tâm ấy một bữa ăn thanh đạm, Mẹ để họ ra về vào khoảng giữa trưa. Lòng họ ngập đầy an ủi. Họ cũng còn đến viếng bái Hài Nhi Thiên Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse mấy lần nữa, dâng cho các ngài một ít tặng vật hợp với cảnh nghèo nàn của họ. Nhưng họ không nói cho ai biết những ơn họ được. Mãi khi Thánh Gia đã đi khỏi rồi, họ mới tiết lộ…

Mẹ Maria đã cầu nguyện cho tất cả những người mà tội lỗi đã làm cho nên bất xứng với ơn Cứu Chuộc, nhưng Mẹ cũng không kém chú ý đến hết mọi nhu cầu của Con chí thánh Mẹ. Mẹ lấy một áo choàng nhỏ làm áo che lạnh cho Con, và luôn luôn Mẹ ủ ấm Con trong vòng tay Mẹ. Nhưng đôi lúc Mẹ cũng trao Con cho Bạn Thánh đồng trinh của Mẹ ẵm, để Thánh Giuse cũng được niềm vui chu toàn nhiệm vụ Người Cha đồng trinh… Ngài quì xuống, vừa run sợ vì tôn kính, vừa khóc lóc vì vui mừng, đón nhận lấy kho tàng trên trời ấy lên tay. Khi bế lại Chúa, Mẹ Maria cũng quì gối xuống, và, từ đó, trước khi Đôi Bạn Thánh trao Con cho nhau bế, thường bái gối ba lần và hôn đất với những tâm tình khiêm nhường thờ lạy rất cao cả. Mẹ cho Chúa Hài Nhi bú sữa mỗi ngày chỉ có ba lần. Đến lúc cho Chúa bú, Mẹ hết sức cung kính xin phép Chúa trước đã, vì, mặc dầu Mẹ phải nuôi dưỡng Hài Nhi Thiên Chúa như Con của lòng mình, song Mẹ cũng luôn luôn nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa thật…. Về giấc ngủ của Mẹ, Mẹ vốn đã ngủ rất ít, từ khi hạ sinh Chúa, Mẹ cứ thức cung kính để trông nom Chúa, cho tới lúc nào Chúa mời, Mẹ mới đi ngủ một chút ít. Để thưởng công lòng nhiệt thành tận tụy của Mẹ, Chúa ban cho Mẹ một giấc ngủ rất lạ lùng, lạ lùng hơn những giấc ngủ trước kia, vì không những tâm hồn Mẹ vẫn tỉnh thức khi ngủ, mà Mẹ dầu ngủ ít vẫn đủ sức để nâng rước, nuôi dưỡng Chúa Hài Nhi.

Từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ Maria vẫn hằng phải chịu một cuộc tử đạo không ngừng khi Mẹ suy niệm về những đau khổ Con chí thánh Mẹ sẽ chịu để cứu rỗi thế gian, nhưng Mẹ không được biết thánh ý Chúa về sự cắt bì phải làm cho Chúa tám ngày sau khi sinh ra. Mẹ biết rõ Con Mẹ xuống thế để tôn trọng và xác nhận lề luật bằng cách tự mình tùy phục lề luật. Nhưng phép cắt bì giả thiết là có nguyên tội là tội mà Hài Nhi Thiên Chúa không thể có, nên Mẹ hoài nghi không biết có phải cho Con chí thánh mình chịu cắt bì hay không, nhất là tình Mẹ yêu Con càng hoài nghi hơn. Dầu sao Mẹ cũng phải chấp nhận một quyết định… Bấy giờ Mẹ nói với Thánh Giuse lấy tiền bà Elisave tặng mà mua một lọ thủy tinh nhỏ, để chứa di tích cắt bì và sắm vải để thấm máu Chúa Hài Nhi sẽ đổ ra cũng như liệu thuốc dấu thông thường để rịt chữa vết thương. Sắm liệu xong rồi, Đôi Bạn Thánh đồng ý đặt tên cho Chúa Hài Nhi là Giêsu; vì cả hai cùng được Trời Cao mạc khải cho là phải đặt danh hiệu ấy.  Ở Bêlem có một hội đường, dân chúng thường hội họp để cầu nguyện và nghe giảng nghĩa Thánh Kinh dưới quyền chủ tọa của một tư tế. Các bà mẹ thường kính cẩn đem con mình đến để xin vị tư tế này cắt bì cho, mặc dầu luật không buộc phải có tư tế cũng làm lễ nghi đó được. Mẹ Maria cũng muốn nhờ ông cắt bì cho Chúa Hài Nhi, và Thánh Giuse đến mời ông tới hang đá. Vừa đến thấy hang đá quá nghèo nàn, ông bất bình. Nhưng rồi vì Mẹ Maria khoan từ dịu dàng thưa gửi, và vì nhìn thấy Hài Nhi Mẹ ẵm trên tay, ông đã đổi thái độ gắt gỏng thành cảm phục, và cảm thấy một lòng sốt sắng khác thường. Muốn cho Mẹ khỏi phải nhìn một lễ nghi đẫm máu, ông nói Mẹ tạm lui xa một lát, cứ trao Hài Nhi cho hai vị phụ tá của ông ẵm bế cũng được. Nhưng vì không muốn xa lìa Con, không muốn trao Con cho một ai khác, Mẹ vừa khiêm tốn vừa khôn ngoan nói lên những lời lẽ vừa rất hợp lý vừa rất dịu dàng, nên tư tế đó bằng lòng để Mẹ được ẵm Chúa Hài Nhi khi ông làm nghi thức. Như vậy, vòng tay Mẹ đã là bàn thờ sống động dâng Hy Lễ mới lên Thiên Chúa. Thánh Giuse thắp lên hai cây mến cho thêm vẻ tôn kính trong hang đá nghèo nàn. Mẹ cởi áo cho Con và lấy một tấm khăn đã ủ nóng trên ngực ra, lót xuống phía lưng Con để tiếp nhận di tích và Máu Con khi chịu phép cắt bì. Theo lời Mẹ xin, vị tư tế đã làm nghi thức đó một cách êm nhẹ hết sức có thể… Ngài ôm chặt lấy Mẹ Ngài, Người Mẹ cũng đang khóc với Ngài, xiết chặt Ngài trên ngực Mẹ và, sau khi băng bó vết thương, đã cẩn thận lấy khăn bọc Ngài lại. Khi tư tế hỏi xem tên Hài Nhi là gì để biên vào sổ, Mẹ nhường Thánh Giuse nói, vì Ngài là gia trưởng, nhưng Thánh Cả lại nói danh hiệu khả tôn đó phải do miệng Mẹ nói ra. Trong lúc Đôi Bạn Thánh nhường nhau, Chúa thúc giục cả hai cùng đồng thanh nói lên: “Tên Hài Nhi là GIÊSU”.

Sau khi Chúa Hài Nhi chịu cắt bì, Thánh Giuse đề nghị với Mẹ Maria bỏ hang đá, vì những bất tiện của nó gây cho Chúa và cho chính Mẹ rất nhiều đau khổ. Mẹ đã biết sẽ có ba nhà Đạo sĩ Vương tước đến thờ lạy Chúa tại hang đá. Từng đọc Thánh Kinh và được mạc khải riêng, Mẹ biết rằng những Đạo sĩ đó sắp đến rồi… Gọi ba vị Vương tước đó là Đạo sĩ, vì họ có khá nhiều kiến thức, mà kiến thức cao quí nhất là hiểu biết Thánh Kinh của dân riêng Chúa. Họ nguyên quán ở Ba Tư, Ả Rập và Saba. Môi vị làm vua cai trị một xứ nho nhỏ. Lãnh thổ của họ giáp ranh giới nhau, nên họ thường qua lại thăm viếng nhau, trao đổi đức tính cũng như kiến thức. Họ có một ý niệm xác thực về Đấng Cứu Thế. Khi Ngài hạ sinh tại Bêlem, thiên thần hộ thủ của họ được một thiên thần ở hang đá Bêlem đến báo tin mừng ấy. Thiên thần hộ thủ của họ báo lại tin này cho họ trong một giấc mộng. Họ đã nhận thức một cách rõ ràng Chúa Cứu Thế đã giáng sinh rồi, và thấy mình có trách vụ phải đi thờ lạy Ngài, theo sự hướng dẫn của một ngôi sao mà Balaam đã tiên báo trước kia. Khi thức dậy, họ phủ phục, dâng niềm kính tôn lên Ngôi Lời Nhập Thể. Ngay hôm đó, họ chuẩn bị hành lý và được một ơn soi động, họ mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm tiến lễ. Cũng trong thời gian đó, vị thiên thần ở Bêlem đã dồn không khí lại làm nên một vì sao sáng, tuy không lớn bằng những ngôi sao trên trời. Sao đó ở độ cao vừa tầm để thi hành mục đích của nó. Ánh sáng cũng khác ánh sáng những vì sao khác. Nó làm đuốc soi ban đêm, nhưng ban ngày người ta cũng nhìn thấy nó. Các Đạo sĩ vừa ra khỏi nhà đã nhìn thấy sao lạ ấy. Họ cứ theo sao mà đi và gặp nhau dưới ánh sáng của sao. Sau khi tỏ cho nhau biết ơn soi sáng và ý định của nhau, họ vừa tán tụng Thiên Chúa vừa cùng với nhau chung một đường đi tìm Chúa Hài Nhi Cứu Thế. Sao biến mất ở Giêrusalem, nên ba Đạo sĩ mới ngờ là Đấng Cứu Thế giáng sinh trong thành này… Ra khỏi Giêrusalem, ba Đạo sĩ lại nhìn thấy sao lạ với một niềm hân hoan tận cùng. Ánh sao dẫn họ đến hang đá Bẹlem, rồi hạ thấp dần xuống, thu nhỏ hình lại, băng vào trong hang đá, đỗ trên đầu Chúa Hài Nhi và tỏa ánh sáng rực rỡ che phủ Ngài, rồi tan dần thành không khí như cũ… Khi các Đạo sĩ vừa vào hang, các ông đã phải ngỡ ngàng thán phục khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi và Đức Mẹ. Họ sấp mình trước mặt Hài Nhi Thiên Chúa mà thờ lạy Ngài là Đấng Cứu Thế….  Cuộc triều bái của họ kéo dài ba giờ rồi, nên họ xin phép Đức Nữ Vương để đi tìm một nơi tạm trú trong thành…. Trong giấc ngủ, các Đạo sĩ được thiên thần đến báo phải đi đường khác mà trở về, đừng quay lại với Hêrôđê nữa. Bình minh hôm sau, họ lại ra hang đá, và qua trung gian Mẹ Maria, họ tiếng dâng Chúa Hài Nhi những lễ vật quí giá xứng với vương quyền Chúa Cứu Thế là: vàng, nhũ hương và mộc dược…. Các Đạo sĩ còn xin Mẹ cho một vật gì làm kỷ niệm. Để an ủi, Mẹ tặng cho họ một vài khăn lót Chúa Giêsu. Trong niềm tri ân hứng thú, họ dâng lên Mẹ một đề nghị, nếu Mẹ muốn ở lại Bêlem, họ xin cúng kinh phí để xây một ngôi nhà và kính biếu tất cả nhu cầu thường nhật. Tất nhiên là Mẹ cảm ơn họ chân thành, nhưng từ chối không nhận đề nghị của họ. Cuối cùng, sau khi xin phép lành của Chúa Giêsu, của Mẹ và của Thánh Cả Giuse, họ giã biệt với biết bao niềm luyến tiếc ái mộ, đến nỗi tâm hồn họ như tan vỡ thành những tiếng xụt xùi và nước mắt. Khi ra khỏi Bêlem, một ngôi sao khác lại dẫn họ theo đường khác cho tới chỗ họ đã gặp nhau lúc ra đi.

Đã tới ngày một bà mẹ sinh con trai đầu lòng phải lên Đền Thờ, theo luật Maisen, để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng con mình cho Chúa… Bêlem cách Giêrusalem hai dặm… Chiều hôm ấy Thánh Giuse kín đáo mang những lễ vật của Đạo sĩ vào Đền Thờ. Khi trở về Ngài mua mấy con chim gáy dành cho lễ nghi hôm sau… Sáng hôm sau, Thánh Gia lên đền thờ… Đêm trước, thánh Simêon và thánh nữ tiên tri Anna cũng tiếp nhận được những mạc khải mới và chính xác về những mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc dưới ơn soi sáng của Thiên Chúa, lúc đó, hai vị vào Đền Thờ, kinh ngạc khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài tỏa rực ánh vinh quang, nhưng hai ánh sáng ấy không bằng nhau: Ánh của Con khác hẳn ánh của Mẹ. Thấm nhuần một an ủi từ trời ban, hai vị đến gặp Chúa Hài Nhi và Mẹ. Thượng Tế Simêon xin Mẹ cho ẵm Chúa. Ông ngước mắt lên trời, bồng Chúa Hài Nhi cao lên dâng cho Cha hằng hữu: “Giờ đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa được chết bằng an, vì mắt con đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc mà Chúa đã hứa ban cho chúng con, Đấng Cứu Chuộc mà Chúa định tỏ cho mọi dân tộc, để làm ánh sáng soi cho các dân ngoại và vinh hạnh cho Israel dân riêng Chúa chọn”. Ông chúc lành cho Mẹ Maria và Thánh Giuse. Đôi Bạn Thánh tán tụng Thánh Linh đã ban ơn lạ cho ông. Ông lại nói với Mẹ: “Đức Nữ nên biết rằng Người Con của Đức Nữ đã được tôn lên để Người Israel một số lớn phải điêu đứng, một số lớn được phục hồi, Ngài sẽ là biểu hiệu gây mâu thuẫn. Và tâm hồn Đức Nữ sẽ bị một lưỡi gươm đau khổ xuyên qua”.  Lúc ông nói những lời ấy, Hài Nhi Giêsu cúi đầu tỏ dấu thuận vâng thánh ý Cha Ngài, và Mẹ Maria cảm thấy trong lòng lưỡi gươm hành hạ Con Chí Thánh mình. Từ đó, hễ nhìn thấy Con là lòng Mẹ lại nhức nhối thêm một nỗi cảm thương không bờ bến, không lúc nào ngừng.